Nhà sư trẻ gốc Việt trở thành “Cao tăng” Tây Tạng
Lati Rinpoche (trái) vị thầy được Ðức Ðạt
Lai Lạt Ma giao nhiệm vụ dạy kèm các vị tái sinh, trong đó có Thầy Don (phải).
Đây là điều đặc biệt, vì nhà sư là người
đầu tiên rời Hoa Kỳ qua Ấn Độ xuống tóc trong một tu viện Tây Tạng, vào dịp Tết
Kỷ Mão 1999, khi mới 12 tuổi. Đặc biệt hơn nữa, đây là người Việt Nam đầu tiên
được truyền thừa trong lịch sử hơn ngàn năm của Phật giáo Tây Tạng.
Sinh tại Quận Cam, ở miền Nam California
trong một gia đình khá giả, lên tám tuổi, cậu bé họ Phạm đã muốn trở thành một
Geshe Tây Tạng.
Mà Geshe là gì?
Geshe là học vị trong hệ thống Phật giáo
Tây Tạng, tương đương với bằng Tiến sĩ về Phật học của Tây phương. Bình thường
ra thì phải mất hai chục năm mới xong và nhiều người không xong nổi. Thế giới
hiện chỉ có chừng 200 vị Geshe thôi.
Muốn được thành một Geshe thì phải thấm
nhuần năm ngành học là Bát nhã ba la mật (Prajnaparamita), Trung quán luận
(Madhyamika), Giới luật (Vinaya), A tỳ đạt ma luận (Abidharma) và Lý luận căn bản
(Pramana Vidya). Thấm nhuần ở đây là phải nhập tâm, bằng Tạng ngữ, trong vài
chục năm tu tập gian nan, hầu có thể ứng đối tranh luận trong mọi tình huống,
về mọi chủ đề trong các cuộc khảo hạch thường xuyên, và từ đó đi hoằng pháp cho
nhân thế. Đã vậy, từ thấp lên cao, học vị Geshe còn có bốn cấp là Dorampa,
Lingtse, Tsorampa và cao nhất là Lharampa, mà trung bình thì phải sáu năm mới
lên tới cấp tối ưu.
Thánh tăng Tây Tạng ngày nay, Kyabje Lati
Rinpoche, được Đức Đạt Lai Lạt Ma yêu cầu hướng dẫn chú bé gốc Việt họ Phạm.
Vị cao tăng Tây Tạng đã hướng dẫn chú bé
họ Phạm là một Lharampa Geshe, một hóa thân của danh tăng Gongkar Rinpoche.
Ngài được tôn là châu báu trong hàng Thánh
tăng Tây Tạng ngày nay, pháp danh là Kyabje Lati Rinpoche, hiện là cố vấn về Lý
luận (Tsen-shabs) của đức Đạt Lai Lạt Ma. Môn sinh của Tulku Lati Rinpoche
thường chỉ là những nhà sư được xác nhận là báo thân của một cao tăng, một vị
đạo sư, một guru từ kiếp trước nguyện tái sinh để tiếp tục hạnh nguyện.
Và đức Đạt Lai Lạt Ma là người trực tiếp
yêu cầu Tulku Lati Rinpoche dìu dắt chú bé.
Vì sao một chú bé sinh trong một gia đình
Việt Nam tại Hoa Kỳ lại được nhận vào tu viện Tây Tạng, rồi được chính đức Đạt
Lai Lạt Ma trao phó cho một vị cao tăng hàng đầu của Ngài việc hướng dẫn tu học
đó?
Có lẽ phải đi từng bước để nhìn ra con
đường học đạo của vị tăng người Việt này.
Với người Tây Tạng, đức Đạt Lai Lạt Ma là
hóa thân của Đại từ Đại bi Bồ tát Quán Thế Âm. Việt Nam ta quen gọi vị Bồ tát
ấy là Phật Quan Âm; vì vậy, nhiều người cũng gọi Ngài là Phật Sống Tây Tạng.
Người Tây Tạng tôn Ngài là "Kundun" với ý nghĩa ấy.
Trong hệ thống Phật giáo Tây Tạng, một Lạt
Ma được coi là hiện thân của Phật, và Bồ tát nguyện tái sinh để cứu độ chúng
sinh. Bậc hóa thân ấy được tôn là Tulku ("Chu
cô" theo cách phiên âm Hán-Việt). Danh hiệu Lạt Ma chỉ được dành cho những
người giảng dạy giáo pháp, và có thẩm quyền thực hành nghi lễ của Phật giáo.
Trong số những người được chứng nhận là Lạt Ma, những vị uyên thâm và cao quý
nhất thì được tôn là Rinpoche (nghĩa là "vô cùng quý báu"). Trong
hàng giáo phẩm và triều đình Tây Tạng, người ta thấy nhiều cao tăng được tôn
vinh là Rinpoche.
Bây giờ, chúng ta có đức Đạt Lai Lạt Ma
thứ 14 - một vị Phật Sống - ủy thác cho một Tulku Rinpoche việc dẫn đạo cho một
nhà sư trẻ của Việt Nam...
Nhà sư này phải có gì đặc biệt mà có lẽ
người thường như chúng ta chưa thấy hết được.
Cách đây bốn năm, nhật báo Orange County
Register đã gửi một phái đoàn, gồm hai nhà báo Anh Đỗ và Teri Sforza cùng đoàn
nhiếp ảnh và truyền hình qua tận Ấn Độ, để làm loạt phóng sự bốn kỳ về chú tiểu
họ Phạm này. Người ta có thể tham khảo loạt bài được biên tập và trình bày công
phu dưới tựa đề "The Boy Monk", tại trang nhà của tờ báo, trong bốn
số ra ngày 19 đến 22 tháng Giêng 2003.
Từ ngày đó đến nay, việc tu học của nhà sư này đã có sự tăng tiến.
Từ ngày đó đến nay, việc tu học của nhà sư này đã có sự tăng tiến.
Một người Mỹ xuất gia sang Ấn Độ tu Phật
giáo đã là hiếm, nhưng vẫn có. Một người sinh tại Mỹ - thuộc thế hệ thứ nhì, vì
cha mẹ là người Việt tỵ nạn - thì lại hiếm hơn. Đây lại là người Mỹ đầu tiên
được nhận vào tu viện Tây Tạng Gaden Shartse, trong tỉnh Mundgod của tiểu bang
Karnataka ở miền Nam
Ấn Độ, để được tu học thành Sa di. Tên Mỹ-Việt Donald Phạm đổi thành Konchog
Osel. Người thân thì gọi là Kusho. Konchog có nghĩa là hiếm quý, Osel là tịnh
quang, ánh sáng trong lành, và Kusho là một cao tăng.
Thế rồi, sau khi khảo hạch, chính Tulku
Lati Rinpoche đã thỉnh đức Đạt Lai Lạt Ma làm lễ thọ giới Cụ túc cho chú tiểu
sa môn. Có mặt trong buổi lễ cử hành vào đúng ngày Phật Đản, còn có bốn vị
Rinpoche khác. Chú được ban pháp danh là Tenzin Drodon, nghĩa là "Người
nắm giữ Phật pháp" (Tenzin) "cứu độ chúng sinh" (Drodon). Drodon
là một pháp danh ít có trong hệ thống Tăng già Tây Tạng.
Ngày nay, Phật giáo Tây Tạng có một nhà sư
dung mạo sáng rỡ, nói sành sõi tiếng Việt, tiếng Anh và tiếng Tây Tạng, với
phương ngữ quý phái của Kinh đô Lhasa, ở bên kia đỉnh núi tuyết ngàn trùng. Vào
mùa Xuân Đinh Hợi 2007, ở tuổi 21, Kusho sẽ thọ giới Tỳ kheo với đức Đạt Lai
Lạt Ma, một điều kỳ lạ nữa. Trong lịch sử Tây Tạng, đây là người Việt đầu tiên
được chính đức Đạt Lai Lạt Ma truyền thừa và truyền giới.
Có thể là sau này, người ta mới được biết
thêm rằng, nhà sư trẻ cũng là hóa thân của một hành giả, nguyện tái sinh trong
một gia đình Việt Nam tại Mỹ, và tu học trong tu viện Tây Tạng tại Ấn vì lợi
ích của chúng sinh. Ba vị cao tăng đã lần lượt hướng dẫn nhà sư là Lharampa
Geshe Tsultim Gyeltsen tại tu viện ở Long Beach, là Lharampa Geshe Lati
Rinpoche, một vụ Tulku tại tu viện Gaden Shartse ở Ấn Độ, và đức Đạt Lai Lạt Ma
đời thứ 14.
Bây giờ, chúng ta bắt đầu tìm hiểu về nhân
vật này.
Vừa ra đời, Donald Phạm đã chững chạc như
người lớn. Chú bé là học sinh ưu tú, thích âm nhạc, viết văn, trượt nước và
chơi Nitendo! Là học trò giỏi tại trường Aliso Viejo
Middle School , chú bé chơi
đủ thứ game trong nhà và thừa điều kiện thành công trong một môi trường đầy cơ
hội là Hoa Kỳ. Ước nguyện ban đầu của chú là thành nhà văn hay bác sĩ. Nhưng,
khác mọi đứa trẻ cùng tuổi, chú ít nói, kín đáo nhìn mọi sự chung quanh và đặc
biệt quan tâm đến người khác.
Cha mẹ chú là những người khá giả và chăm
sóc kỹ lưỡng tâm hồn các con. Mẹ chú sùng đạo từ khi còn ở Việt Nam . Tại Hoa Kỳ
thì cả gia đình thường đến ngôi chùa Tây Tạng ở Long Beach , do đức Đạt Lai Lạt Ma đặt tên là
Thubten Dhargye Ling, để tu học Phật pháp. Đây là một việc không dễ, vì từ nhà
đến chùa là 90 cây số, và một tuần, gia đình lên chùa ba lần.
Donald vào chùa là có phản ứng khác lạ.
Tưởng đứa con lơ đãng nhìn quanh, bà mẹ ngạc nhiên vì chú nghe được hết và nói
lại rành mạch những khái niệm rất lạ. Thí dụ như hiện tượng "tâm viên ý
mã" trong lúc thiền định! Người lớn nghe đã thấy khó lãnh hội, huống hồ
một đứa trẻ ở tuổi mẫu giáo!
Năm chú lên bốn, bà mẹ đọc báo thấy có tin
là vị Đạo sư Lati Rinpoche sẽ đến thuyết pháp ở Los Angeles . Quá mừng khi được cơ hội gặp vị
cao tăng, mà mình đã đọc lời giảng trong sách từ khi còn mang thai chú bé, bà
dẫn chú đi nghe và năm đó, Donald đã quy y với Tulku Lati Rinpoche!
Khi chú lên năm, cô em kém chú hơn một
tuổi bỗng khóc òa vì làm vỡ cái đĩa. Chú bé đứng cao hơn quầy bếp đã lên giọng
trấn an: "Đừng lo, đó chỉ là đồ vật thôi! Nếu chấp vào vật nhỏ như vậy thì
khi chết, làm sao cái tâm bỏ được cái thân này?"
Rồi sau đó, thay vì là nhà văn hay bác sĩ,
năm lên tám, chú muốn thành một Geshe!
Thấy con mình có ý đi tu để thành Geshe,
bà mẹ trình bày với vị Hòa thượng trụ trì tu viện Phật giáo Tây Tạng tại Long Beach , là Lharampa
Geshe Tsultim Gyeltsen, thường được Phật tử quý mến gọi là Geshe La.
Hòa thượng Geshe La khuyên là, hãy kiên
nhẫn tìm hiểu tâm tư chú bé đã! Cho con vào chùa là chuyện thường tình ở Á châu
và Tây Tạng, nhưng chúng ta đang ở tại Hoa Kỳ, trong một khu vực trù phú, lịch
sự. Con đường tới chùa là một chặng đường khá xa cần phải tìm hiểu. Mà cách tìm
hiểu hay nhất là chính họ phải qua tận Ấn Độ, thăm viếng một ngôi chùa Tây Tạng
đủ lâu để thấy hết tận mắt. Thày dạy, tu viện là một đại dương, có rất nhiều
ngọc ngà châu báu đấy nhưng cũng có cá mập.
Hãy tìm hiểu rồi mới quyết định cho chú bé!
Khi Donald Phạm lên chín, năm 1995, cha mẹ
chú quyết định sang thăm tu viện, cách đó đúng là vạn dặm. Bước đầu là từ
California bay qua Ấn Độ, rồi đi xe buýt leo đèo băng suối tới một tu viện
trong khu định cư của người Tây Tạng tại Mundgod, thuộc tiểu bang Karnatala ở
miền Nam Ấn Độ. Đó là tu viện Gaden Sharte của dòng Gelugpa Phật giáo Tây Tạng.
Khu vực định cư cho dân tỵ nạn thường
không là một vùng đất trù phú, thịnh vượng. Sự nghèo khổ và thiếu thốn là quy
luật chung, huống hồ là nơi tu hành! Người viện trưởng của Tu viện chính là
ngài Tulku Lati Rinpoche, mà gia đình họ Phạm đã đọc, rồi đã gặp tại Los Angeles .
Phép sinh hoạt nơi đây là sự khắc khổ
nghiêm ngặt. Mọi người thức giấc từ năm giờ sáng, chư tăng áo đỏ tụng kinh đến
bảy giờ rồi ăn sáng. Thực đơn khác hẳn bữa điểm tâm trong một ngôi nhà khang
trang ở Laguna Niguel tại California .
Bánh mì chấm trà có pha đường, bơ tẩm muối. Sau đó là học ngôn ngữ và tranh
luận đến trưa. Quá ngọ là buổi học với các đạo sư cho đến chiều. Cơm tối là
cháo. Xong cơm là học tiếp về Phật pháp qua tranh luận, có khi đến nửa đêm...
Giáo trình đào tạo còn nặng hơn mọi trường
tư thục ưu tú nhất của Mỹ. Và không có các màn giải trí qua truyền hình, chơi
game, nghe nhạc từ DVD... Cũng không có quà vặt, máy giặt, máy xấy, nước nóng,
phòng riêng... Làm sao cho con mình vào sống nơi đó?
Gia đình ở lại sáu tuần và chú Donald Phạm
cho biết, muốn học đạo ở nơi đây.
Trường hợp của chú hiển nhiên đã được
Geshe La và Tulku Rinpoche chú ý. Phải tìm lời giải trong phép khảo chứng bí
truyền của Tây Tạng. Vị cao tăng thực hiện buổi lễ linh thiêng ấy chính là Tuku
Rinpoche. Lời giải là chú bé này là một đứa trẻ đặc biệt, sẽ vào chùa thành một
vị sư Tây Tạng. Donald Phạm cũng cảm thấy như vậy.
Việc cháu Donald muốn đi tu đã gây nhiều
phản ứng và tranh luận trong đại gia đình. Đầu tiên thì chị và em không muốn xa
Donald. Còn ông ngoại thì hoàn toàn không vui! Điều ấy cũng thật dễ hiểu. Nhưng
ý của chú đã quyết và cha mẹ cũng thông cảm, hỗ trợ, nên mọi người quen dần với
quyết định này.
Gần bốn năm trôi qua, rồi vào dịp Tết Kỷ
Mão 1999, cả gia đình Donald Phạm đã theo Hòa thượng Geshe La qua Ấn Độ. Chú sẽ
ở lại nơi đây. Tết Nguyên đán Kỷ Mão thì xuống tóc, trở thành Sa di Kusho
Konchog Osel. Tu viện có 1.500 người cùng học, nhưng chú được chính đức Đạt Lai
Lạt Ma ân cần phó thác cho vị Viện trưởng Tulku Lati Rinpoche trực tiếp hướng
dẫn. Mọi người ân cần gọi chú là Kusho-la.
Hai năm sau, Kusho được đưa lên
Dharamsala, miền cực Bắc Ấn Độ, vào học viện Lý luận Phật giáo Institute of
Buddhist Dialectics. Có 300 sinh viên, học viện này nằm gần thị trấn McLeod
Ganj của Ấn. Thị trấn được gọi là "Little Lhasa", trụ sở của Chính
quyền Lưu vong Tây Tạng, và học viện IBD là nơi đức Đạt Lai Lạt Ma thường giảng
pháp.
Trong học viện, tiểu Sa di Kusho là người
trẻ nhất và được chú ý, vì khả năng lãnh hội lẫn tranh luận. Chú còn được khen
là từ tốn, khiêm nhường và thường trầm lặng trước mối quan tâm của truyền thông
báo chí. Nhiều người đã luận rằng, Kusho có thiện nghiệp để trở thành sư, và có
phúc duyên được hướng dẫn bởi những vị cao tăng, để theo đuổi Phật học đến chỗ
thâm sâu.
Ngày nay, Kusho đã thành một vị sư 21
tuổi, và Xuân này sẽ thọ giới Tỳ kheo với chính đức Đạt Lai Lạt Ma, thành
Shakya Bikshu Tenzin Drodon.
Trong khi ấy, gia đình ở nhà cũng thay
đổi. Càng luống tuổi, ông ngoại của Kusho càng thấy ra hai lẽ. Phần mình, thì
đời người quả là hữu hạn. Phần cháu ngoại Donald, thì việc cháu trở thành sư là
một điều lành.
Đầu năm 2007, ông cụ lâm trọng bệnh, và từ
Ấn Độ, Kusho trở về thăm ông, có thể là lần cuối. Hai ông cháu gặp nhau trong
một cảnh ngộ cảm động.
Được hỏi về chuyến thăm viếng, nhà sư trẻ
giải thích là, vì muốn cầu nguyện cho tâm của ông ngoại được thảnh thơi, vững
mạnh, và buông xả hết mọi ưu phiền.
Kusho không tin là mình có "thần
lực" hay khả năng hộ niệm để ông "siêu sinh tịnh độ", như ta
thường nói. Cháu chỉ muốn gặp ông, hàn huyên để ông vui với tuổi già, có cái
nhìn lạc quan, tích cực về mọi chuyện. Riêng mình, thì đứa cháu rất cảm động
nghe ông nói rằng, mình mừng cho cháu đã đi tìm hạnh phúc trong sự tu tập, vì
hạnh phúc thật là khi mưu cầu cho hạnh phúc của người khác. Hai ông cháu đã
hoàn toàn cảm thông và cùng nhìn vào một hướng.
Nói đến chuyện "thần lực" hay
"hóa thân", đề tài kỳ diệu khi ta nghĩ đến Phật giáo Tây Tạng, Kusho
cười hiền hòa và giải thích bằng cả tiếng Việt lẫn tiếng Anh: Không, chú không
là hóa thân hay đang tu tập để có thần lực thi hành được những việc siêu nhiên.
Việc tu tập để tìm thần lực hay khả năng siêu nhiên là điều sai. Nhưng, khi tu
tập, Kusho hay nghĩ: "Mình là ai?" Là một chú bé Việt Nam , một thiếu
niên Mỹ hay một Sa di Tây Tạng - Là tất cả!
Ban đầu, khi ở trong Tu viện Gaden thì còn
mơ hồ, vì có lúc thấy mình là một thiếu niên Mỹ, một đứa trẻ Việt Nam , và nhất là
khác lạ với chúng bạn người Tây Tạng chung quanh. Thế rồi, một cách tiệm tiến
và nhẹ nhàng tự nhiên, chú thấy mình tách rời với tất cả những "hành
trang" ấy của quá khứ, mà cảm nhận ra một sự thể gì bao nhiếp tất cả. Một
sự an nhiên kỳ lạ, khiến mình thấy thư thái và tự do hơn.
Cảm giác gọi là "giải thoát" ấy
xuất phát từ sự tu tập hay từ ý chí của mình? - Có lẽ, phép tu tập giúp cho ý
chí ấy thành vững mạnh hơn và quan trọng nhất, giúp cho mình thấy được cách suy
nghĩ tích cực và nuôi dưỡng nghị lực tích cực.
Kusho suy nghĩ rồi nói bằng tiếng Anh:
"Positive Energy".
Nhưng, trong tu viện Gaden hay trong học
viện ở Dharamsala, Sa môn Kusho có biết hay được biết gì về thế giới bên ngoài
không, về "đời sống thật" không?
Ban đầu, trong tu viện chỉ học về kinh
điển và phép luận giải, chứ qua học viện tại Dharamsala, thì các học viên đều
có thể xem truyền hình và đọc báo, để biết về những gì đang xảy ra trên thế
giới. Chính đức Đạt Lai Lạt Ma đã muốn các học viên chứng đắc Phật pháp, bằng
cách hiểu được cộng đồng và thế giới. Ngoài ra, giáo trình của học viện chẳng
khác gì nhiều nếu so với một Đại học tân tiến, học viên được giáo dục để biết
về thế giới cũng như Phật pháp.
Sau khi hoàn tất khóa học rất dài tại
Dharamsala, Kusho sẽ trở lại tu viện Gaden, và lúc ấy, mới lại sống như một vị
tăng trong chùa.
Nhưng, khi biết rằng thế giới này
"khổ" - vì nạn đói ở Phi châu hay khủng bố tại Trung Đông chẳng hạn -
học viên nghĩ sao? Và muốn làm gì để giải trừ cái khổ ấy?
Nhà sư trẻ suy nghĩ giây lát mới giải
thích. Trước hết, những tin tức ấy có giá trị "khích lệ", là yếu tố
càng thúc đẩy học viên phải tu tập để góp phần giải trừ cái khổ.
Nhưng, nhìn từ các tu viện, cái khổ ấy có
là một ý niệm trừu tượng xa vời của "chúng sinh" hay của người khác
không? Thí dụ như một bác sĩ vẫn có thể chữa chạy cho bệnh nhân, sau khi học về
những triệu chứng hay hậu quả của bệnh. Một nhà xã hội cũng có thể học về khủng
hoảng để góp phần giải quyết, dù mình chẳng là nạn nhân... Liệu cảm nhận về cái
khổ này có là một khái niệm tách bạch xa vời, vì không trực tiếp liên hệ đến
mình ở trong chùa hay trong học viện?
Kusho tìm chữ diễn tả, cả Việt lẫn Anh,
rằng, sự hiểu biết về cái khổ ấy tác động rất mạnh vào tâm trí, nhưng theo
hướng khác. Ý thức về những vấn đề ấy khiến mình càng thêm tin tưởng vào Phật
pháp, và càng thôi thúc mình làm một cái gì đó để cứu giúp người khác. Đây cũng
là bước cần thiết để chứng nghiệm đức tin của mình.
Nếu tu học để thành sư mà không nghĩ đến
việc giúp đỡ người khác thì là một sự lãng phí! Phật giáo Tây Tạng rất chú ý
đến việc tu dưỡng Bồ đề tâm, đến Bồ tát hạnh, và coi việc giúp đỡ người khác là
một bổn phận trọng yếu, một phần không thể tách rời trong đức từ bi của người
Phật tử.
Nói đến người khác, Kusho có nghĩ đến
người Việt và Phật giáo Việt Nam
không?
Vị Sa môn trẻ này cám ơn mẹ cha, là những
Phật tử đã khuyến khích và giúp đỡ mình trên con đường học đạo.
Chính tấm lòng yêu thương của bà mẹ đã
khiến chú cố gắng tu tập, để có thể làm tròn bổn phận với Việt Nam . Vì vậy,
sau giai đoạn tu chứng, nhà sư trẻ còn phải đi một bước rất xa, là học hỏi thêm
về Việt Nam và Phật giáo
Việt Nam .
Phật giáo Tây Tạng theo Kim cang thừa
(Varayana) của Đại thừa Mahayana, nhưng cũng áp dụng phép tu có đặc tính Mật
tông và cả Bồ tát hạnh, trong những giáo lý nền tảng của Phật giáo Nguyên thủy
Theravada. Vì vậy, trong giáo trình đào tạo và tu học, các học viên đều phải
thấm nhuần những lý giải Tiểu thừa hay Nguyên thủy. Sau này, Kusho sẽ học thêm
về những đặc tính đa diện của Phật giáo Việt Nam , và phải thông thạo tiếng Việt
để tiếp xúc với Phật tử người Việt.
Một con đường rất dài... Khi viết, Kusho
sử dụng cả hai tay, trái và phải, để viết chữ Tây Tạng hay tiếng Anh. Khi học,
có lẽ cũng phải nhớ đến tương lai là tìm đến Phật giáo Việt Nam . Vả lại,
chính đức Đạt Lai Lạt Ma đã căn dặn như vậy.
Hôm đó, sau khi được Ngài truyền giới, vị
tiểu sa môn được đức Đạt Lai Lạt Ma gọi riêng ra chụp chung tấm hình. "Con
giữ tấm hình này cho quê hương con, cho nước Việt Nam ". Kusho treo tấm hình
trong trai phòng tại học viện, như một nhắc nhở hàng ngày.
Việc nhà sư Tenzin Drodon này sẽ chứng đắc
học vị Geshe có thể chỉ là thời gian, vì tâm nguyện như vậy. Nhưng, việc một
người có tâm hồn và giáo dục Việt Nam được tu học thành nhà sư Tây
Tạng mới là một hạnh ngộ hiếm hoi.
Lời khuyên của Tulku Lati Rinpoche là,
Kusho hãy cố gắng tinh tấn tu học, hầu trở thành một sa môn đầy đủ Bồ tát hạnh,
là Bi, Trí, Dũng để hoằng pháp lợi sanh cho nhân thế. Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rõ
hơn trong từng buổi gặp gỡ: "Đừng quên Việt Nam ! Lòng từ bi và trí tuệ của con
sẽ giúp ích rất nhiều cho quê hương con."
Pháp danh Drodon quý hiếm này, có lẽ Ngài
chọn cho Kusho để hướng tới trách nhiệm với Việt Nam .
Sông Mekong xuất phát từ vùng đất Kham đã
tái sinh của hai vị cao tăng Tây Tạng là Gehse La và Tulku Rinpoche. Nơi con
sông này đổ ra biển chính là Việt Nam .
Phải chăng, đức Đạt Lai Lạt Ma đã thấy vạn
sự từ đầu nguồn tiền kiếp, mà chưa đến lúc nói ra?
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét