THỜI CƠ ĐÃ ĐẾN
Một lần nữa khác vọng Tự Do và Dân Chủ của người dân đã
thắng độc tài. Điều này khẳng định một chân lý, cuộc tranh đấu của bất cứ dân tộc nào chống lại độc tài để
dành lấy Tự Do và Dân Chủ đều là chính nghĩa.
Như vậy là sau Tunisie, Ai Cập, giờ đến luợc Libye, các
chính quyền độc tài Ả Rập lần lượt sụp đổ. Sau Libye, sẻ đến lượt Syrie và
những nước độc tài còn lại thuộc khối Ả Rập lần lượt cáo chung. Quy luật Domino
đang cuốn trôi những chính quyền độc tài còn lại trên thế giới. Và số phận của chế độ cộng sản
Việt Nam cũng
chỉ còn là vấn đề thời gian. Đó là chân lý.
Với những chính quyền
dân chủ mới ở Bắc Phi, Mỹ và Âu Châu và Nhật, nói chung là thế giới tự do có
trong tay hơn 90% trử lượng dầu hỏa của thế giới. Trung Cộng chắc chắn đang
điên tiếc, một chính quyền độc tài sụp đổ là trung cộng mất đi một đồng minh.
Vì không còn môi trường để mua chuột và thao túng các chính quyền đó, không còn
cơ hội để thu tóm tài nguyên của thế giới cho mục tiêu phát triển của nó. Vòng
vây của thế giới tự do dành cho TC đang ngày một xiết chặt. Lệ thuộc về năng
lượng là điều mà TC không thể tránh khỏi. Nói một cách khác, đó là tròng vào
đầu TC một cái vòng kim cô.
Thế giới tự do, mà Mỹ
đứng đầu, đang đi từng bước tiến tới việc giải quyết hiểm họa của nhân loại là
trung cộng. TC chắc chắn sẻ phải thất bại trong âm mưu trở thành bá chủ thế
giới của nó. Cộng sản VN chọn phe thắng, hay phe thất bại ?. Phe thắng là
phe của chính nghĩa, là thế giới tự do. Phe chắc chắn sẻ thất bại là TC, là phe
ác, là phe của độc tài.
Theo phe Tự Do, csVN
bắt buộc phải thực thi nhân quyền và dân chủ. Vừa bắt tay với phe Tự Do vừa cố
giữ lấy chính thể độc tài, là một tính toán sẻ dẫn đến ngỏ cụt cho csVN, một sự
lựa chọn hủ lậu nhất, ngu xuẫn nhất, vì đó là lựa chọn cho một kết cuộc thê
thảm nhất cho họ và gia đình họ. Kết cuộc của Gaddafi, của Mubarak, của Ben
Ali.
Theo trung cộng, thì
đã quá muộn, những bước đi ngày càng gần gủi hơn với Mỹ của csVN, không cho
phép nó quay trở lại được nữa. TC đã cương quyết đạp vào mặt của những tên nô
tài phản chủ là đảng csVN. Đọc lại những giọng điệu của báo chí chính thống TC
nhắm vào csVN thì rỏ : nào là « ….con chó VN », nào là
« ….phải lấy máu bọn VN tế cờ…. », nào là « … đã đến lúc
trung quốc phải xuất đao…. », còn đặng tiểu bình thì gọi bọn csVN là
« …bọn côn đồ lưu manh »…
Vậy nên, ai cũng biết
là csVN chỉ có thể trông cậy vào thế giới tự do. Nhưng ngặt một nỗi, nếu quay
lưng hẳn với TC, thì lở mai này, dân chúng VN nỗi dậy theo kiểu Ba Lan, hay
Libye thì csVN biết nhờ ai can thiệp đây ?. Còn bám víu vào TC, là
còn hy vọng có một đội quân cảnh sát TC sẳng sàng được gởi qua cứu nguy cho chế
độ csVN khi cần. Vì vậy mà csVN vẫn do dự, cù cưa cho đến giờ phút này vẫn chưa
giám bướt hẳn sang một phe với Mỹ.
Còn người dân VN thì
lẻ tất nhiên là chúng ta chỉ có thể trông cậy vào thế giới tự do. Nhưng điều
chính, chắc chắn là phải trông cậy vào năng lực của chính dân tộc mình.
Các điều kiện cho một cuộc cách mạng DÂN CHỦ vậy là đang
hội tụ về một điểm. Phía chính quyền độc tài csVN thì điều bắt buột là nới lỏng
sự kìm hảm quyền tự do của người dân. Phía người dân thì phong trào quần chúng
tư phát, đúng ra đòi hỏi các quyền lợi chính đáng ngày một lên cao và lan rộng.
Cộng thêm với sự phát triển và phổ biến của các phương tiện truyền thông đang
mang đến từng nhà từng người những giá trị Tự Do, Nhân Quyền, và Dân Chủ, để
cho mọi người hiểu được cái mình phải có và đã bị tước đoạt như thế nào. Ánh
sáng của TỰ DO DÂN CHỦ đang ngày một lang rộng và tỏa sáng khắp các nẻo đường
đất nước, đi đến đâu nó đẩy lùi bóng tối của độc ác, độc tài, lưu manh, và dối
trá đến đó. Cái bóng tối của cộng sản, của giáo điều bịp bợp đó đang ngày một
bị thu hẹp lại. Và điểm cuối cùng là sự chấm dức toàn bộ của hệ thống độc tài đảng trị. Vần đề còn lại là thời gian và
sự chấm dứt sẻ xảy ra như thế nào mà thôi.
MỸ VÀ TRUNG CỘNG, BẠN HAY THÙ ?
Xin nói ngay, đó là
hai kẻ thù của nhau. Và có lẻ, kết cuộc của sự đối đầu này sẻ quyết định một
phần lớn lịch sử của nhân loại trong thế kỷ 21 này.
Tính cách hữu nghị
trong ban giao giữa Mỹ và Trung Cộng mà ngưòi ta thường thấy trên các phương
tiện truyền thông đại chúng, chỉ là phần nổi của tản băng tuyết. Phần chìm, là
phần chính thì trái ngược, nó không có gì là hữu nghị. Nói như những chuyên gia
với những quan điểm tương đối dè dặt, thì quan hệ giữa hai quốc gia này sẻ đi
đến một cuộc chiến tranh lạnh trong những năm tháng tới đây. Còn một trường
phái học giả khác, thì lại cho rằng, có nhiều khả năng là sự xung đột đó sẻ dẩn
đến một cuộc chiến tranh bằng quân sự.
Người viết bài này
nghĩ rằng, truờng phái thứ hai – giả thuyết cho một cuộc xung đột bằng vũ trang
giữa Mỹ và Trung Cộng – đã đưa ra những lập luận từ những nghiên cứu chuyên
sâu, rất thuyết phục.
Vậy thực chất của mối
quan hệ đó như thế nào ?.
Theo học giả người
Pháp François Lenglet thì, sự xung đột giữa hai quốc gia này trải rộng trên 5
mặt trận và đã kéo dài từ hơn 40 năm nay :
1-
Mặt trận tiền tệ
2-
Mặt trận trên biển
3-
Mặt trận trên mạng
4-
Mặt trận dầu hỏa
5-
Mặt trận giữa hai mô hình (mô hình tổ chức chính trị xã hội).
Chúng ta hảy thử xem
xét tiến trình đó theo một trình tự cứ 10 năm là một chu kỳ, như
sự sắp đặt của vị học giả trên.
Ngày 2 tháng 3 năm
1969, Trung Cộng bất ngờ phục kích và giết chết hơn 30 quân nhân Liên Xô trên
đảo Damanski, một hòn đảo băng giá không người ở và nằm trong vòng tranh chấp
giữa Liên Xô và Trung Cộng. Ngay ngày hôm sau những cuộc biểu tình rầm rộ đã
được tổ chức ở Moscou. Ở Bắc Kinh, thì bộ máy tuyên truyền tuôn xả những giọng
điệu đầy thù nghịch, và kêu gọi người dân Liên Xô nổi dậy lật đổ những
« tân Hoàng Đế (tsar) ». Và sự thù nghịch cũng ngày một leo
thang, lửa căm thù đã nóng lại càng nóng hơn.
Tổng thống mỹ Richard Nixon, lúc đó đã nắm lấy cơ hội. Cũng
thời điểm đó ông ta đang công du Châu Âu. Sau một ngày trời hội luận với tổng
thống Pháp Charles de Gaulle tại điện Versailles .
De Gaulle cho ông ta biết rằng « Phía Liên Xô đang tính đến một cuộc chiến
với Trung Cộng », đồng thời khuyên Nixon « rút quân Mỹ khỏi VN », và « bắt tay với Trung
Cộng ».
Đó cũng là ý định của
Nixon, và chính quyền Mỹ : « rút quân khỏi Việt Nam một cách ít
tốn kém nhất. Bắt tay với Trung Cộng hoặc Liên Xô để chia rẻ và làm suy yếu
khối cộng sản ».
Quyết định ban đầu của Nixon và Kissinger là bắt tay với Liên Xô. Patrick Tyler (trong tài liệu A Great Wall,
PublicAffaires 2000) viết, lúc ấy cố vấn của Nixon là Kissinger viết báo cáo
cho Nixon có đoạn ghi « Quyết tâm mỗi ngày một lớn của Moscou trên vấn đề
Trung cộng, và sự cần thiết rút ra những lợi thế trong việc hợp tác với
Moscou ». Nixon phê chuẩn bên lề của bản báo cáo « Đó chính là
mục đích của chúng ta ».
Ngay sau đó, Nixon đã cho tiến hành một nghiên cứu tối mật, về một
cuộc tấn công bằng nguyên tử của Mỹ lên nước tàu (Vẫn theo Patrick Tyler).
Một mặt thì tìm cách
hợp tác với Moscou, một mặt thì lạì tỏ tín hiệu muốn xích lại gần với Trung
Cộng. Chính quyền Mỹ lúc đó tính toán rằng, làm như vậy, Moscou sẻ phải lo ngại
và xuống nước phần nào để cuối cùng ảnh huởng đến Hà Nội, và đi đến một giải
pháp mà người Mỹ mong muốn ở Việt Nam.
Nhưng Moscou vẫn
khăng khăng từ chối những tín hiệu hòa hoản của Washington gởi đến họ.
Nguợc lại, họ còn
tăng viện cho Hà Nội bằng những chuyến tàu lữa ồ ạt chở vũ khí từ Liên Xô đến
VN, đi ngang qua lãnh thổ Trung Cộng.
Moscou tỏ ra không
muốn lọt vào trò chơi của Mỹ nên đã chủ động hòa giải với Trung Cộng với mong
muốn hàn gắn vết nức giữa hai nước cộng sản. Kossyguine, thủ tướng Liên Xô thời
bấy giờ, bèn nhất điện thoại gọi trực tiếp cho Mao. Bên kia đầu giây, nhân viên
của Mao bắt máy, khi biết đưọc nguời gọi là ai, liền mắng ông ta là đồ phản cách
mạng, rồi từ chối chuyển qua cho Mao.
Ngày 3 tháng 9 năm
1969, Hồ Chí Minh chết, cả thế giới cộng sản đua nhau đến Hà Nội để dự đám
tang. Kossyguine lại một lần nửa tiềm cách nói chuyện trực tiếp với Chu Ân Lai
ở Hà Nội, nhưng họ Chu tìm cớ từ chối không
gặp. Kossyguine giả vờ quay về Moscou, nhưng CIA theo giỏi và phát hiện đường
bay của ông ta có điều lạ. Chuyến bay thay vì về Moscou thì lại ghé Douchanbé,
rồi bay thẳng đến Bắc Kinh. Cuối cùng thì Kossyguine cũng gặp được Chu Ân Lai ở
phi trường, nhưng cuộc nói chuyện đã biến thành một cuộc khẩu chiến.
« Chủ tịch Mao nhận định rằng sự mâu thuẫn giữa chúng ta sẻ
kéo dài mười ngàn năm ». Lời của họ Chu
nói với thủ tướng Liên Xô. Đáp lại, Kossyguine đã đe dọa thẳng vào chính quyền
Bắc Kinh.
Vài ngày sau, một mật
vụ của Liên Xô ở Luân Đôn, tên là Victor Louis, tung ra một bài báo nói thẳng
về kế họach tiêu diệt các cở sở hạt nhân của Trung Cộng ở Tân Cương, đồng thời
cũng cho rằng nhân dân Trung Quốc đã bắt đầu nổi dậy lật đổ Mao, và Liên Xô sẳn
sàng can thiệp để tiếp tay vớì người dân Trung Quốc. Tái thực hiện một chiến
dịch như ở Prague ,
đó là ý định của Brejnev.
Mao và cả Trung Quốc hoảng sợ đã cho dời xa các công xuởng
chiến lượt đến sa mạc Quinhai, đồng thời cho xây dựng cả một thành phố duới
lòng đất, với đủ các thiết bị cần thiết cho cuộc sống trú ẩn. Để phản công, Mao gởi tín hiệu cho Moscou,
bằng cách cho nổ hai quả bom nguyên tử trong sa mạc Trung Quốc. Theo
Patrick Tyler, « Như truyền thống của người tàu, Mao đã xuất chiêu mà
không cần phải động đến một binh lính ».
Cơ hội đã lộ rỏ cho
phía Mỹ, thế là Nixon và Kissinger bắt đầu quan tâm đến « lá bài Trung
Cộng ». Sau này Kissinger thổ lộ « trong tình huống xấu nhất, phải
cân bằng quan hệ với cả Trung Cộng lẫn Liên Xô », đồng thời tiếp tay cho
bọn họ thù hằn cắn xé lẫn nhau. Ông ta nói « chúng tôi muốn uống cả rựu
Đại mao (maotai) và cả Vodka.
Trái lại với phản ứng
của Liên Xô trước bàn tay chìa ra của Mỹ, Trung cộng gởi ngay một tín hiệu đến
Washington bày tỏ mong muốn bắt tay với Mỹ. Một ngày đẹp trời, những chuyến tàu
lửa chở vủ khí từ Nga về Hà Nội, bị chận lại một cách bí ẩn.
Thế là một vũ điệu
dạo đầu giữa Trung Cộng và Mỹ bắt đầu. Bước đầu là những gặp gở giữa hai
đội tuyển bóng bàn, rồi những trao đổi cũng không kém phần kịch tính giữa đội
tuyển Mỹ với Chu Ân Lai. Rồi những màn trình diễn về sự thân thiện giữa đôi
bên…
Xong màn dạo đầu thì
đến ngày 9 tháng 7 năm 1971, Kissinger bí mật đến Bắc Kinh. Ngày 17 tháng
2 năm 1972, Nixon và phái đoàn Mỹ chính thức thăm Bắc Kinh. Một tuần trăng mật
đầy kịch tính cũng đưọc đôi bên trình bày cho nhau xem.
Và theo sau, là những thỏa thuận giữa đôi bên. Mỹ làm quà
cho Trung Cộng bằng những hồ sơ tối mật về thực lực của quân đội Liên Xô, chấp
nhận nhuợng bộ những đòi hỏi của Trung Cộng trên hồ sơ Đài Loan, mở phòng đại
diện ở hai nước nhằm tái lập lại những trao đổi thưong mại Mỹ-Trung. Đổi lại Trung Cộng sẻ áp lực Hà
Nội ngồi vào bàn hội nghị cho một hiệp định đình chiến. Tháng 1 năm 1973, Kissinger và
Lê Đức Thọ đặt bút ký hiệp định đình chiến ở Paris. Lá bài
Trung Cộng đã giúp Mỹ đạt được hai mục đích, chia rẻ khối cộng sản, rút quân
khỏi Việt Nam
một cách êm thắm. Năm ấy (1973) tuần báo Time bầu Nixon là « Nhân Vật
trong năm ». Tháng 11 năm ấy, Nixon tái đắc cử một nhiệm kỳ nửa.
Vũ điệu « tình
hữu nghị Mỹ-Trung » chưa kéo dài được bao lâu trên vũ đài chính trị quốc
tế thì các diễn viên chính đột ngột ra đi. Ngày 08 tháng 08 năm 1974, Nixon từ
chức sau vụ tai tiếng Watergate. Tháng 01 năm 1976, Chu Ân Lai chết. Ngày 08
tháng 9 cùng năm, Mao cũng đi theo.
Từ cái chết của Mao, tháng 09 năm 1976 đến cuối năm 1978,
nội bộ Trung Cộng thanh toán lẫn nhau để tranh dành quyền lực. Phe « Tứ
Nhân Ban » cuối cùng bị thanh toán, vợ cả của Mao, và ba nhân vật cao cấp
khác cùng nhiều đồng sự bị tử hình. Đặng Tiểu Bình chính thức trở thành tổng bí thư đảng cộng sản
Trung Quốc, ngày 13 tháng 09 năm 1978.
Từ năm 1979 đến cuối
năm 1980, họ Đặng gặt hái được nhiều thành quả trong việc tiếp tục cải thiện
quan hệ và đẩy mạnh thương mại với chính quyền Carter (Jimmy Carter được bầu
làm tổng thống Mỹ tháng 11 năm 1976).
Năm 1979 cũng là năm
mà Liên Xô bành trướng mạnh ảnh hưởng của mình ở Trung Đông, chuẫn bị can thiệp
vào Afghanistan , ngấm ngầm
tiếp tay cho cuộc lật đổ quốc vương Shah, một chính quyền thân Mỹ ở Iran .
Tháng 01 năm 1979, họ Đặng đến Mỹ. Đặng và Carter bày tỏ mối lo
ngại chung trước sự bành trướng đang lên của Liên Xô . Sau cuộc gặp gở đó, một
thoả thuận đôi bên cùng có lợi được thông qua. Trung Cộng chấp nhận cho Mỹ đặt một hệ thống nghe lén để
theo dỏi Liên Xô ở phía tây Trung Quốc, dự án « Chestnut ». Đổi lại
Mỹ sẻ để yên cho Trung Cộng đánh Việt Nam .
Ngày 17 tháng 02 năm 1979, Bắc Kinh xua 100 000 quân tiến
đánh Việt Nam, để gọi là « dạy cho Hà Nội một bài học ».
1969-1979, Đó là mười năm gặt hái được nhiều thành quả cho Trung
Cộng, trong chủ trương ban giao với Mỹ của Mao và Đặng. Đó cũng là 10 năm
mà Mỹ sử dụng con bài Trung Cộng để đối phó với Moscou. Bấy giờ Moscou mới là đối thủ chính của Mỹ. Dùng quân
chốt (tàu) của kẻ địch (Liên Xô) để đánh địch. Các tay lãnh đạo của Mỹ thật là
cao kiến. Trung cộng hưỏng lợi đưọc một, Mỹ được mười.
Cái mối ban giao theo
lối bạn hàng, đôi bên cùng có lợi, « tiền trao thì cháo múc » chỉ là
một giao đoạn. Khi nhu cầu lợi dụng nhau không còn, thì cũng là lúc hợp đồng
chấm dức. Quan hệ Mỹ-Trung bắt đầu xấu trở lại từ đây.
Tháng 11 năm 1980,
Ronald Reagan được bầu làm tổng thống Mỹ. Một toán quan chức cao cấp của Trung
Cộng đến Mỹ, dưới sự dẫn dắt của Alexander Haig (secrétaire d’état), ngưòi vẫn
chủ trương sử dụng lá bài Trung Cộng để đối phó Liên Xô. Khi đến tòa Bạch Ốc,
thì nhóm người này đã bị tổng thống Mỹ từ chối không gặp.
Khi đó Reagan đóng sầm cửa phòng làm việc lại và nói « Tôi
biết quá rỏ cái bọn điếm đàng này » (« je saivais bien que ce sont
tous des fils de pute ») theo Patrick Tyler.
Năm sau những hợp
đồng bán vũ khí cho Đài Loan được nối lại, sau khi đã bị gián đoạn dưới nhiệm
kỳ của Nixon và Carter.
Sau cái chết của Brejnev, hiểm họa Liên Xô đối với Mỹ và
thế giới tự do, kể cả đối với tàu cũng giảm dần. Chính quyền Trung Cộng quyết
định tập trung cải cách kinh tế. Nhiều chính sách được thực hiện nhằm chiêu dụ
các công ty nước ngoài đến Trung Cộng đầu tư. Năm 1984, đầu từ ngoại quốc trực tiếp vào Trung Cộng đạt 1.3 tỷ
USD. Con số không
lớn, nhưng thời bấy giờ nó là động lực cho sự cất cánh của nền kinh tế Trung
Cộng. Từ 1984 đến 1988, mức bình quân đầu người của Trung Cộng (PIB) phát triển
khoảng 15% một năm. Nhưng lạm phát thì cũng gần như tương đương, giá các mặt
hàng tiêu dùng tăng 14% vào năm 1987. Trung Cộng phải đối mặt với một vấn đề,
làm thế nào để tăng trưởng không quá cao để kìm hảm bớt lạm phát ?, nhưng
cũng phải tăng trưởng mạnh để phát triển nước tàu, tăng thêm công ăn việc làm.
Sự cân bằng đó lại tùy thuộc vào mối tương quan lực lượng giữa phe bảo thủ và phe
cấp tiến của tàu.
Năm 1988, lạm phát Trung Cộng lên đến 18,5%. Ngày 15 tháng 4 năm 1989, Hu
Yaobang qua đời vì bệnh tim. Thanh niên, sinh viên Trung Cộng bắt đầu tập trung
ở Thiên An Môn với lý do là để vinh danh một nhân vật được xem là cấp tiến vừa
qua đời. Ngày 22 tháng 4, Đặng Tiểu Bình ra lệnh cấm tụ tập ở quảng trường ấy.
Khi đó những người biểu tình vẫn bất chấp lệnh cấm và tiếp tục tụ tập đến
khoảng 100 000 người. Cuộc
biểu tình vì tự do dân chủ kéo dài hơn một tháng. Ngày 4 tháng 6 năm 1989, Đặng
Tiểu Bình cho quân đội dùng xe tăng thiết giáp tiến vào đàn áp cuộc biểu tình.
Có từ 1500 đến 2500 người bị giết, theo tài liệu của tình báo Mỹ. Tòa đại
sứ Mỹ bị quân giải phóng Trung Cộng nả đạn. Tòa Bạch Ốc chuẫn bị dời
10 000 người Mỹ khỏi Trung Quốc.
Quốc hội Mỹ yêu cầu Bush chấm dức quan hệ ngoại giao và trừng phạt
kinh tế Trung Cộng. Nixon, gọi điện
gấp cho Bush và khuyên ông ta nên tính toán đường dài. Cuối cùng thì tổng thống
Mỹ chỉ dừng lại ở một trừng phạt giới hạn : Ngừng bán vũ khí cho Trung
Cộng, ngưng các chuyến thăm chính thức giữa hai bên.
Thiên An Môn đã nhắc
nhở chính giới Hoa Kỳ về bộ mặt thật của Trung Cộng. Nó khẳng định thêm một lần
nữa về tính chất chống nhân loại của các chế độ cộng sản trên tòan thế giới.
Năm 1989, Cộng Sản Ba
Lan rồi đến bức tường Bá Linh sụp đổ, khối cộng sản tan rả. Phát triển kinh tế
Trung Cộng rơi xuống mức 4.1% năm ấy. Năm sau tiếp tục giảm xuống 3.8%. Chấm
dức một chu kỳ 10 năm trong quan hệ Trung-Mỹ.
1979-1989, Mười năm làm nền tảng cho sự cất cánh của nền kinh tế
Trung Cộng. Mười năm của sự xét lại
trong quan hệ của Mỹ đối với Trung Cộng. Nhưng Liên Xô vẫn còn đó, nên Mỹ cũng
phải miễn cưỡng mà tiếp tục mối ban giao với con bài Trung Cộng.
Kể từ đây mọi việc bắt đầu xoay chiều trong mối ban giao Mỹ-Trung.
Thành quả trong việc giao tiếp với Mỹ, xử dụng nguồn vốn,
kỷ thuật của Mỹ và Tây Phương, đã mang lại cho Trung Quốc một mức tăng truởng
15% năm 1992. Đầu tư nước ngoài vào Trung Cộng đạt đến 100 tỷ USD năm 1993. Tự
tin với sự trổi dậy mới mẻ của mình, Bắc Kinh bắt đầu phô trương sức mạnh của
mình trong vùng. Lòng kiêu ngạo của người tàu bắt đầu hồi sinh.
Nhu cầu dùng Trung
Cộng chống Liên Xô của Mỹ không còn, cùng lúc với hiểm họa Trung Cộng cũng bắt
đầu ló dạng. Chính sách đối ngoại của Mỹ kể từ đây sẻ đặt biệt quan tâm đến
Trung Cộng. Nó đặt Trung Cộng như là đối thủ nguy hiểm nhất mà Mỹ sẻ phải đối
đầu trong tương lai. Trong lần ứng cử tổng thống năm 1992, Bill Clinton tuyên
bố sẻ không bắt tay với những đao phủ của Thiên An Môn.
Nhưng ở Mỹ, khi cái đầu nói « không », và bao tử
thì nói « có » thì cũng khó cho cái đầu để nói « không ».
Mặt dù chính quyền và quốc hội Hoa Kỳ thì đả điểm mặt chỉ tên Trung Cộng, nhưng
giới lobbie thì vẫn gây áp lực lên chính truờng Mỹ vì muốn bảo vệ quyền lợi
kinh tế của họ trong việc làm ăn với Trung Cộng. Gọi là làm ăn, nhưng thực chất
chính quyền Trung Cộng bán dân làm nô lệ, giới tài phiệt Âu Mỹ mua nhân công
giá bèo. Cứ như thế mà « Tối huệ quốc » cứ được Mỹ gia hạn cho
Trung Cộng thêm mỗi năm một lần. Như câu chuyện Ngàn Lẻ Một Đêm, cứ mỗi
lần quốc vưong Shahryar muốn chém đầu nàng Shéhérazade, thì nàng lại kể cho ông
ta nghe một câu chuyện mới đầy thú vị, và lần xử chém lại được dời lại ngày hôm
sau. Nhưng khổ nổi đối với Trung Cộng, thì Mỹ sẻ chẳng bao giờ chấp nhận hôn
nhân vĩnh viễn với Mỹ.
Cái gọi là « hợp tác kinh tế » thực chất cũng chỉ
là quan hệ lợi dụng lẫn nhau. Chẳng phải vì một thứ cảm tình gì với Trung Cộng. Điều này được khẳng định bởi
chính « US-China Business Council » rằng Clinton thật ra cũng chỉ tạo những điều kiện
thuận lợi cho các công ty Mỹ hưởng lợi từ một đội quân nô lệ ba xu bốn hào.
Những giá trị lợi
dụng đó chấm dức thì quan hệ chấm dức. Thời điểm đó đang ló dạng trước chân
trời chính trị quốc tế.
Năm 1994, Trung Cộng phá giá đồng Nhân dân tệ đến 50% so với đồng
USD. Trên mặt ngoại giao, quan hệ
Mỹ-Trung bắt đầu xấu đi nhanh chóng. CIA Mỹ nhận được thông tin, một chiếc
tàu của Trung Cộng chuyển đến Iran, gaz mù tạt, một loại hóa chất để chế tạo vũ
khí hóa học. Hải quân Mỹ chận ngay chiếc tàu đó trên Ấn độ duơng. Nhưng tàu
Trung Quốc từ chối không cho khám xét. Cuối cùng thì chính quyền Trung Cộng
cũng phải nhượng bộ và để cho phía Mỹ lục xoát chiếc tàu khi nó cập bến Ả rập
Sâu Đi (Arabie Saoudite). Nhưng người Mỹ lại không thấy gì trên tàu. Bộ trưởng
ngoại giao Trung Cộng lúc đó ra thông cáo phản đối rằng Mỹ xâm phạm chủ quyền
quốc gia của họ. Một cuộc khủng hoảng ngoại giao Mỹ-Trung thứ hai dưới thời
Clinton là việc tổng thống Đài Loan Lee Tenghui, một người gốc Hakka sinh ra
trên đảo quốc này, được chấp thuận cho một chuyến công du đến Mỹ năm 1995, mặt
dù Trung Cộng phản đối kịch liệt. Lee Tenhui, một người với chủ trương tuyên bố
đập lập cho Đài Loan rất rỏ ràng. Người đã dân chủ hóa Đài Loan và đã thay đổi
hiến pháp Đàì Loan để thiết lập việc bầu chọn tổng thống bằng phổ thông đầu
phiếu. Bắc Kinh điên tiết vì sự bất lực của mình trước Mỹ, lại còn điên tiết
hơn khi biết rằng một năm sau, 1996 sẻ là năm mà người dân Đài Loan trực tiếp
bầu tổng thống của họ. Một buớc trong việc tiến tới tự quyết và tuyên bố độc
lập của Đài Loan trong mắt Trung Cộng. Bắc Kinh cho tập trận liên tục trên eo
biển Đài Loan, cho bắn hỏa tiển đến gần bờ biển của đảo quốc này. Clinton ra lệnh cho các
hạm đội Mỹ tiến vào eo biển Đài Loan.
23 tháng 3 năm 1996,
Lee Tenghui tái đác cử và tìm cách hạ nhiệt với Trung Cộng. Nhưng quốc hội Hoa
Kỳ thì vẫn còn nóng rang. Quốc hội Hoa Kỳ phê chuẩn thêm một lần nữa việc bán
vũ khí cho Đài Loan.
Mùa hè năm 1997, khủng hỏan kinh tế nghiêm trọng xảy ra ở Á Châu. Việc phá giá đồng nhân dân tệ của Trung Cộng năm 1994,
được đánh giá như một trong những nguyên nhân dẫn đến cuộc khủng hoảng này.
1989-1999, đã khép lại mười năm giằng co giữa « ở » và
« đi », trong quan hệ Mỹ-Trung.
Có lẻ cũng là thời
gian để cho Mỹ ổn định lại các chính sách của mình sau một thời gian dài chú
tâm vào việc đối phó với Liên Xô và khối cộng sản. Đó cũng là thời gian rảnh
tay cho Trung Cộng gấp rút phát triển kinh tế, hiện đại hoá quân đội. Ngày 17
tháng 01 năm 1999 hai sĩ quan cao cấp của quân đội Trung Cộng, Qiao Liang và
Wang Xiangsui, cho ra mắt ở Bắc Kinh cuốn sách mang tựa đề : « Cuộc
chiến vượt ngoài những giới hạn » (La guerre hors limites).
Qua đó Trung cộng kêu
gọi thực hiện một cuộc chiến toàn diện, trên tất cả các mặt trận với Mỹ, trong
đó quân đội chỉ là một tác nhân trong nhiều tác nhân khác của cuộc chiến. Sách viết « Chiến tranh
sẻ không được bãi bỏ, ngay cả trong thời đại gọi là hậu hiện đại, hậu công
nghiệp. Nó chỉ len lỏi vào xã hội loài người một cách phức tạp hơn, bao trùm
hơn, kín đáo hơn và tinh tế hơn…Nói một cách khác chúng ta thấy một sự giảm
thiểu những xung đột quân sự, thì cũng thấy sư tăng trưởng của những xung đột
chính trị, kinh tế và kỷ thuật…Chiến tranh từ nay sẻ sử dụng đến tất cả mọi
phương tiện quân sự và phi quân sự, những phương tiện chính và phụ để khuất
phục kẻ thù trước những quyền lợi của chúng ta ».
Bắt đầu thế kỷ 21, đã
mở ra xung đột Mỹ-Trung, người Mỹ nghĩ rằng có thể cầm chân Trung Cộng bằng sự
kiểm xoát lối vào thị trường thế giới, và sự tiếp cận với kỷ thuật tân tiến mà Trung
Cộng mong muốn, cùng với sự kiểm xoát đa phần năng lượng của thế giới bởi người
Mỹ. Còn Trung Cộng thì nghĩ rằng nó có thể khuynh loát Mỹ bằng sự chi
viện với số ngoại tệ của nó cho Mỹ
Sự phát triển không
lành mạnh của Trung Quốc là một trong những nguyên nhân dẫn đến cuộc khủng
hoảng tài chính ở Tây Phương năm 2007-2009, theo nhận định của các chuyên gia.
Tháng 05 năm 1999,
không quân Mỹ dội bom lên tòa đại sứ Trung Cộng ở Belgrade, Nam Tư củ, giết
chết ba quan chức tàu và gây thương tích khoảng 20 người khác. Bill Clinton gọi
điện ngay lập tức cho Giang Trạch Dân, nhưng họ Giang từ chối không trả lời.
Chính quyền Mỹ chính thức xin lỗi Trung Cộng. Nhưng Trung Cộng vẫn cho tổ chức
những cuộc xuống đường rầm rộ ở Trung Quốc. Tòa Đại Sứ và Tổng Lảnh Sự Mỹ bị
làm mục tiêu của những cuộc tấn công bằng bom xăng (cocktail Molotov) từ phía
dân chúng tàu phẩn nộ. Lần đầu tiên có một sự bùng nổ của chủ nghĩa dân tộc tàu
kể từ sau khi cs trung cộng chiếm quyền 1949. Nó cho thấy lòng thù hận tây
phưong và Mỹ.
Để thay thế cho chủ
nghĩa cộng sản, không còn giá trị gì nữa đối với quần chúng tàu. Giới cầm quyền
Bắc Kinh đả chuyển sang chiến lượt mới : giương cao ngọn cờ « Trung
Quốc vĩ đại » cùng với ngọn cờ « Những đe dọa từ bên ngoài ». Để đảm bảo
một sự đoàn kết của quần chúng tàu duới ngọn cờ của đảng cs trung quốc. Đồng
thời cũng là cách lái khối người đó ra khỏi những yêu sách không có lợi cho
chính quyền.
Ngày 01 tháng 04 năm
2001, Trung Cộng cho một phi công cố tình va chạm nhẹ với một máy bay do thám
của Mỹ trên không, khiến cho chiếc máy bay này phải đáp khẩn xuống Hải Nam . Trung Cộng
bắt giữ phi hành đoàn và chiếc máy bay. Cùng lúc Trung Cộng tranh thủ xem xét
tỷ mỷ kỷ thuật rơi từ trên trời xuống này. Washington phải xuống giọng xin lỗi tàu để
đổi lấy sự phóng thích phi hành đoàn. Ngày 23 tháng 04 năm 2001, Bush cho phép
một lần nữa bán tàu chiến, tàu ngầm và máy bay chiến đấu cho Đài Loan.
Tháng 11 năm 2009, Obama thăm Trung Quốc, người ta tưởng
rằng quan hệ Mỹ-Trung lại nồng ấm trở lại. Nhưng chỉ vài tuần sau, tại hội nghị
quốc tế về biến đổi khí hậu ở Copenhague, Đan Mạch, cả cộng đồng quốc tế trông
chờ một hành động có trách nhiệm từ phía Trung Cộng với môi trường chung của
nhân loại. Nhưng tất cả đều thất vọng về thái độ của Trung Cộng. OBama, cố gắn
thuyết phục trong một buổi họp lần chót, nhưng phái đoàn của Trung Cộng không
thèm đến dự họp. Ngày 12 tháng 01 2010, Google công bố kết quả điều tra cho
thấy, đã bị tin tặc tấn công. Chính xát hơn là sự tấn công xuất phát từ hai
trường đại học Jiaotong và Shanghai, hai trường được biết có mối quan hệ mật
thiết với quân đội Trung Cộng, cùng với các công ty cạnh tranh với Google của
TC. Tinh thần chống tàu ở Mỹ lại bùng lên trở lại, chính giới và giới tài phiệt
Hoa Kỳ phản công kịch liệt. Hạ viện Hoa Kỳ dự trù ra nghị quyết xát định Trung Cộng như một kẻ
« lũng đoạn » tiền tệ.
Cuối thập niên 2010, một số chuyên gia cho rằng mô hình
Trung Cộng đã giúp nó vượt lên cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Nhưng thực
chất theo những nghiên cứu nghiêm túc cho thấy TC sống trên một hòn núi lửa mà
không biết nó phun khi nào. Chính quyền TC cho lập ra khoảng 8000 công ty tài
chính, để vay vốn và đầu tư. Con số nợ của các công ty này sấp sỉ 100% PIB của TC năm
2011. Đó là tình trạng rất gần với Hy Lạp. Nghĩa là phá sản.
Theo Financial Times,
28 tháng 03 năm 2010.
Bong bóng địa ốc, và
những hỗn loạn tài chính đã dẫn đến những biến động xã hội ở tàu. Và tiến trình
đó chỉ mới đang ở giai đoạn đầu.
Lời kết :
Trung cộng là một
hiểm họa cho cả thế giới, nó uy hiếp trực tiếp vị thế của Mỹ, Nhật và tây
phương, và cả Nga. Nó nguy hiểm hơn Liên Xô nhiều lần đối với Mỹ.
Nó xung đột với Mỹ
trên phương diện tiền tệ. Nó bị điểm mặt như một kẻ gian lận, vô trách nhiệm
với cộng đồng quốc tế. Nó hưởng lợi về kinh tế nhờ vào chính sách lũng đoạn
tiền tệ của nó.
Trên biển, nó xung
đột với Mỹ, Nhật và các nước Asean, đặc biệt với Việt Nam, vì đánh giá thấp
chính quyền cộng sản VN. Đô đốc Robert Willard, chỉ huy truởng hải quân Mỹ ở
Thái Bình Dương, khẳng định : « Một trong những mối quan tâm của chúng
tôi là, có những khía cạnh trong việc hiện đại hóa quân đội Trung Cộng, là nhằm
chống lại sự tự do hoạt động của chúng tôi trong vùng. », theo New York
Times, 23 tháng 4 năm 2010. Còn giám đốc của FBI thì tuyên bố : «
Trung Cộng kể từ nay là một mối đe dọa nghiêm trọng nhất, vì nó đánh cắp các bí
mật của chúng tôi để phát triển kỷ thuật quân sự của nó. ». Cựu giám đốc
phản gián Mỹ thì nhận định : « Tình báo Trung Cộng, kể từ nay, là
những kẻ hung hăng nhất thế giới, nhắm đến các mục tiêu của Hoa Kỳ. ».
Xung đột trên biển
với Trung Cộng, người Mỹ đả tính toán từ lâu. Họ đặc căn cứ nguyên tử ở Okinawa , liên minh quân sự với Nam Hàn, Philippine, ký
hiệp ước bảo vệ Đài Loan từ sau đệ nhị thế chiến. Mac Arthur, tổng tư lệnh quân
đội Mỹ và đồng minh ở Thái Bình Dương trong đệ nhị thế chiến nhận định rằng,
Đài Loan là một hàng không mẫu hạm không bao giờ chìm caủ Mỹ, nằm án ngữ ngay
trước họng Trung Cộng. Một hòn đảo gần lục địa nhất thuộc chủ quyền Đài Loan,
chỉ nằm cách bờ biển Trung Quốc 30km. Mac Arthur, một tướng tài có viễn kiến,
người đã kiên quyết đánh Trung Cộng, sau chiến tranh Triều Tiên. Cũng vì không
đồng ý với ông ta trong quyết định quan trọng này mà tổng thống Truman của Mỹ
đã phải cắt chức và triệu hồi ông về Mỹ. Mặt dù chưa đụng độ quân sự với TC
trên biển, nhưng người Mỹ đã chuẫn bị kỷ luỡng cho tình huống đó từ nữa thế kỷ
nay. Bao giờ người Mỹ sẻ phải dùng đến quân đội để giải quyết kẻ thù nguy hiểm
này ?. Có chuyên gia cho rằng, điều đó sẻ xảy ra trong một tương lai gần
đây.
Bên trong của mối ban giao Mỹ-Trung, hay nói cho đúng là sự
đối đầu giữa hai bên, là sự xung đột sâu và rộng hơn những gì được bộc lộ ra
trong các tuyên bố công khai. Ngày 3 tháng 12 năm 2009, bộ quốc phòng Mỹ chuẫn
bị một bản báo cáo thường niên, trong đó ghi : « Hoa Kỳ cần phải cẩn
trọng chuẫn bị đối phó với sự cạnh tranh bất ổn, và xung đột với Trung Cộng,
trong trường hợp mà sự tiếp cận bằng hợp tác không còn thích hợp nữa. ». Chính quyền Mỹ, sau đó đã cho thay thế
đoạn văn nói trên và thay thế bằng một tuyên bố khác đã được công bố :
« Hoa Kỳ hoan nghênh một Trung Quốc mạnh và giàu có, biết đảm nhận một vai
trò quốc tế quan trọng hơn. », theo một tiết lộ của quốc hội Mỹ China
naval Modernisation : Implications for US Navy Capabilities, Congressional
Research Service, tháng 6 năm 2010.
Sử gia Paul Kenedy cho rằng, chính kinh tế là yếu tố tiên quyết
dẫn đến chiến tranh từ năm 1500
đến 1980. Theo ông, tất cả những biến động về tương quan lực lượng quân sự trên
thế giới đều dẫn đến những thay đổi trong cán cân sản xuất. Ba trường hợp trong
lịch sử cận đại chứng minh điều đó. Sự bùng phát kinh tế của các nước, Pháp
duới thời Colbert , ở Đức duới thời Frédéric II , Nhật dưới thời Meiji, cả ba
đều dẫn đến chiến tranh sau vài thập niên cất cánh ngoạn mục của kinh tế chỉ
đạo bởi những chính quyền độc tài nhưng hiệu quả. Họ so sánh Trung Cộng từ thời
Đặng Tiểu Bình đã đi vào vết mòn của ba mô hình trên. Sự bùng phát về kinh tế
dẫn đến những phản ứng tâm lý và các nhu cầu đảm bảo an ninh cho phát triển,
những lo sợ cũng tăng theo với sự trổi dậy của những tham vọng chính trị và vị
thế trên trường quốc tế. Tất cả những yếu tố đó cộng hưởng và gia tăng để
cuối cùng dẫn đến chiến tranh.
Nhiều học giả cũng
cho rằng chiến tranh lạnh đã bắt đầu giữa Mỹ và Trung Cộng. Trung Cộng đã thực
sự chuyễn sang những hành động bành trướng một cách kiên nhẫn trên Biển Đông,
và Bắc Hải. Nó gia tăng những khiêu khích với Mỹ và các quốc gia lân bang, bằng
một sự phối hợp giữa quân đội, phe ngoại giao, và sử dụng luôn cả tàu đánh cá
dân sự. Nhật Bản và các nước Đông Nam Á liên tục báo động về các hành động bành
trướng này của Trung Cộng.
Có nhiều khả năng Mỹ
sẻ không đứng bên lề quan sát, họ sẻ phải ra tay để chận đứng lòng tham không
đáy của con quái vật này. Nó có thể bắt đầu bằng sự leo thang của những xung
đột từ nhiều khía cạnh.
Những khó khăn về
kinh tế trên tòan cầu nếu kéo dài thêm, sẻ thúc đẩy các chính quyền tây phương
bảo vệ mậu dịch hơn nữa đối với TC. Điều đó chẳng khác nào giật lại miến ăn từ
miệng của anh tàu, với tất cả những hệ trọng của nó.
Cuộc khủng hoảng tài
chính 2007-2009, cỏn trầm trọng hơn cuộc khủng hỏan tài chính năm 1929 ở Mỹ,
với hệ quả là cuộc chiến tranh thế giới thứ hai. Vì từ khủng hoảng tài chính
dẫn đến khủng hoảng kinh tế, và hậu quả là những biến động xã hội và chính trị,
để kết thúc bằng một cuộc chiến tranh lan rộng. Đó là nhận định từ những nghiên
cứu của các chuyên gia kinh tế và chính trị.
Mùa đông năm
2008-2009, sau khi khủng hoảng tài chính nổ ra, tòa thánh Vatican, đã bí mật
cho thực hiện một cuộc nghiên cứu về một khả năng xảy ra xung đột quan trọng, ở
một nơi nào đó trên trái đất trong một tương lai gần, theo học giả Phillipe Desserine, giáo sư và là giám đốc
viện nghiên cứu thượng tần tài chính (haute finance). Một tương lai gần có
nghĩa là duới 10 năm.
Các tài liêu tham khảo :
-
Le monde s’en va-t-en guerre, Philippe Desssertine.
-
La Guerre des empires, François Lenglet.
-
Chine-USA La guerre programmée, Jean-françois Susbielle.
-
Le Rapport de la CIA, Alexandre Adler.
-
Naissance et déclin des grandes puissances, Paul Kenedy.
-
Le Vampire du milieu, Philippe Cohen, Luc Richard.
-
La fin de l’histoire et le dernier homme, Francis Fukuyama.
-
Le Choc des civilisations, Samuel P. Huntington.
Nguyễn Hiếu Học. hieuhocn@gmail.com
Nguồn: Blog : http://phothuongdan2011.wordpress.com/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét